Thursday, June 2, 2016

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT VŨ NƯƠNG

   Vũ Nương là người phụ nữ đẹp người đẹp nết, nhân hậu thủy chung, vị tha, nhưng số phận lại cưc kì đau khổ và bất hanh, Vũ Nương là hình tượng tiêu biểu cho người Phụ nữ Việt Nam trong chế độ phong kiến.


I. Mở bài: 


- Khái quát về tác giả, tác phẩm

- Giới thiệu về nhân vật

II. Thân bài:

1. Vũ Nương mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam

- Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn hảo. 

- Sau đó ông đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật trong các mối quan hệ khác nhau, trong các tình huống khác nhau.

a.Trước hết Vũ Nương là người phụ nữ thuỷ chung, son sắc trong tình nghĩa vợ chồng:

- Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực!

- Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. 

+ Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. 

+ Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường.Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.”.

+ Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!

- Khi xa chồng: 

+ Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức: “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngưn nổi”

+ “Giữ trọn tấm lòng thủy chung, son sắt vỡi chồng”, “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liêu tường hoa chưa hề bén gót”. 

+ Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:

"… Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…" 

(Chinh phụ ngâm)

- Thương chồng là thế, thủy chung với chồng là thế nên khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả thân phận và tấm lòng của mình để thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu.....cách biệt ba năm giữ gìn một tiết.....” Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương.

b. Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng

- Trong ba năm chồng đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm mẹ để chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con thơ.

- Với mẹ chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo. 

+ Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con. 

+ Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ". 

c. Vũ Nương một người mẹ hiền đầy tình yêu thương con.

- Với con thơ nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, 

+ Thương con vừa ra đời đã không thấy mặt cha, để xóa đi hình bong người cha trong tâm hồn đứa con non nớt, hang đêm nàng đã trỏ bong mình trên vách mà bảo là cha Đản. 

+ Việc làm đơn giản ấy đã cho thấy tấm lòng của một người mẹ thương con, khao khát về một mái ấm gia đình thực sự cho con.

d. Vũ Nương một người phụ nữ giàu lòng vị tha và đức hi sinh:

- Sống đã nhân hậu, chết vẫn nhân hậu những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sung sướng nhưng nàng vẫn không nguôi nỗi thương nhớ chồng con. 

+ gặp lại Phan lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia đình nàng đã ứa nước mắt xót thương rồi quả quyết “ Ngưa hồ gầm gió bắc chim việt đậu cành nam cảm vì nỗi ấy tôi tất sẽ tìm về có ngày” 

+ Mặc dù đã nặng lời thề sống chết với Linh Phi nhưng nàng vẫn tìm cách trở về với chồng con trong giây lát để nói lời đa tạ tấm lòng chồng. Rõ ràng trong trái tim người phụ nữ ấy, không bợn chút thù hận, chỉ có sự yêu thương và lòng vị tha.

=> Vũ Nương đã làm tròn bổn phận của một phụ nữ, người vợ, người mẹ, người con, ở cương vị nào nàng cũng làm rất hoàn hảo. Nàng đúng là người phụ nữ lí tưởng của gia đình. Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp.

2. Số phận oan nghiệt:

- Người phụ nữ đẹp người toàn vẹn như vữ Nương xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhưng hạnh phúc đã không mỉm cười với nàng. Số phận nàng thật đáng thương:

a. Lấy Phải người chồng hay ghen, đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá mức. 

+ Nỗi bất hạnh của Vũ Nương bắt đầu ngay từ khi nàng lấy phải một người chồng giàu có mà thất học, đã hay ghen lại đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức.

+ Trong những ngày làm dâu nhà họ Trương, Vũ Nương cũng đâu hạnh phúc hơn gì! Nàng phải luôn chịu đựng sự xét nét “ phòng ngừa quá sức” của chồng

b. cuộc cuộc hôn nhân lại không xuất phát từ tình yêu. 

- Từ đầu, ta đã nhận ra đây là một cuộc hôn nhân không bình đẳng. Vũ Nương vốn “ con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”, còn Trương Sinh muốn lấy được Vũ Nương chỉ cần “ nói với mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ”. Sự cách bức ấy cộng thêm cái thế của người chồng, người đàn ông trong chế độ nam quyền phong kiến đã khiến cho Trương Sinh tự cho mình cái quyền đánh đuổi vợ không cần có chứng cứ rõ ràng. 

c. Phải xa chồng sống cuộc đời của người chinh phụ.

- Lấy chồng không được bao lâu thì niềm vui “nghi gia nghi thất” của Vũ Nương bị mất đi bởi chồng “có tên trong số lính đi vào loại đầu”. Nàng thiếu phụ tuổi xuân còn phơi phới đã phải gánh chịu nỗi buồn “chiếc bóng năm canh” của đời người chinh phụ.

- Rồi gánh nặng gia đình chồng cộng thêm noi cô đơn vì phòng không gối chiếc đã bào mòn tuổi xuân của Vũ Nương. Ta có thể cảm nhận được nỗi vất vả của nàng qua những vần điệu ca dao cổ: 

"Có con phải khổ vì con

Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng”

d. Bị chồng nghi oan ruồng rẫy phải tự tử.

- Nhưng bi kịch của cuộc đời nàng thực sự bắt đầu vào cái ngày mà người ta tưởng nàng sẽ được hưởng hạnh phúc của sự sum họp: Ngày Trương Sinh trở về.

+ Chồng trở về sau ba năm chinh chiến, cứ tưởng hạnh phúc sẽ mỉm cười với nàng như mong mỏi của người mẹ chồng trước lúc lâm chung nhưng có ngờ đâu bi kịch xảy ra. Câu nói ngây thơ của đứa con trai vừa lên ba tuổi, về “ một người đàn ông đêm nào cũng đến” đã làm bùng lên ngọn lửa ghen tuông nghi ngờ trong long chàng Trương.

+ Với bản tính hay ghen cộng thêm tính gia trưởng, thất học, Trương Sinh đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương Sinh đã “ mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi” mặc cho Vũ Nương hết sức phân trần, mặc cho “hàng xóm can ngăn cũng chẳng ăn thua gì”. Nàng đau khổ đến xé long, cầu xin được minh oan, được giãi bày, nhưng tất cả đều vô dụng, đau đớn tuyệt vọng “nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”, “khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa đâu còn có thể lên núi vọng phu kia nữa” . Bi kịch dâng tràn đến đỉnh điểm, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của chính mình! Còn gì đớn đau, còn gì bi thương hơn thế “ Ke bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám, thiếp nếu đoan trang giữ tiết trinh bạch gìn lòng, vào nước xin được làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ, nhược bằng long chim dạ cá lừa chồng dối con, xuống nước xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”

- Năm thế kỉ đã trôi qua nhưng lời than phẫn uất của Vũ Nương cùng hành động quyết liệt quyết lấy cái chết để chướng minh cho long trong sạch của mình vẫn làn người đọc hôm nay giật mình xa xót.

+ Ta tự hỏi tại sao Vũ Nưng không chọn cách giải quyết khác mà lại chọn cái chết và ta buồn bã nhận ra rằng với Vũ Nương với người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa thì chẳng có con đường nào khác cả, Những số phận như VN đâu phải hiếm:

+ Ta đã bắt gặp số phận ấy qua cuộc đời đầy oan nghiệt của Kính Tâm, của Vương Thúy Kiều, của bà, của mẹ ta….Cuộc đời đâu giành cho họ hạnh phúc, muốn được hạnh phúc họ phải tìm đến thế giới khác, và thậm chí có được sống sung sướng dưới Thủy cung, được kề cận với Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải thì Vũ Nương vẫn đâu có hạnh phúc. làm sao có thể hưởng thụ hạnh phúc cho được khi quyền làm mẹ, làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn? Bi kịch vẫn đeo bám theo Vũ Nương vào tận chốn Thủy cung huyền bí. Người đọc càng cảm thấy xót xa hơn khi nghe câu nói của nàng ở cuối truyện: “ Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”. Âm dương đã cách trở đôi đường. Hạnh phúc bị tan vỡ khó lòng hàn gắn lại được. Kết thúc câu chuyện bi đát này là một khoảng vắng mênh mông, mờ mịt… Đằng sau yếu tố hoang đường, câu chuyện về nàng Vũ Nương mang đậm tính hiện thực và thấm đẫm tinh thần nhân đạo.

* Liên hệ đến người phụ nữ ngày nay:

- Người phụ nữ ngày nay đã được bình đẳng như nam giới, họ đã được cởi bỏ khỏi tam tong, tứ đức.

- Ngày nay phụ nữ đã khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong xã hội: trở thành những  doanh nhân thành đạt, những tổng thống, thủ tướng…..


- Xây dựng được cốt truyện có phạm vi khái quát được hiện thực xã hội và đời sống.

- Tạo dựng được tình huống đơn giản mà đặc sắc làm nổi bật được tính chất éo le, bi kịch trong cuộc đời người phụ nữ thời xưa; làm rõ được cái trớ trêu với hạnh phúc của con người.

- Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật đã đạt đến đỉnh cao

- Nghệ thuật dựng truyện: trên cơ sở có sẵn, tác giả đã sáng tạo thêm và sắp xếp các tình tiết làm cho diễn biến của truyện hợp lý, tự nhiên, tăng kịch tính, hấp dẫn và sinh động. Tuy tác giả có sáng tạo thêm một số yếu tố trong diễn biến truyện nhưng tất cả đều xảy ra hết sức tự nhiên, không mang sự hoang đường.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: có thể nói nghệ thuật khắc họa hình ảnh nhân vật ở đây cực kỳ sắc nét, người đọc có thể hình dung được nhân vật trong truyện của mình đang đọc. Nhân vật được khắc họa tâm lý và tính cách thông qua lời nói (đối thoại) và lời tự bạch ( đội thoại). Khác với các nhân vật trong truyện cổ tích.

- Sử dụng yếu tố truyền kỳ (kỳ ảo): trong truyện có nhiều yếu tốt kỳ ảo, không phù hợp với cuộc sống thường ngày. Tuy nhiên đây không phải là các yếu tố hoang đường, sự kỳ ảo làm nổi bật lên giá trị nhân đạo của tác phẩm.

- Kết hợp các phương thức biểu đạt: truyện có sự kết hợp linh hoạt của nhiều phương thức biểu đạt như tự sự + biểu cảm (trữ tình) làm nên một áng văn xuôi trữ tình sống mãi với thời gian.

III. Kết luận:

- Khái quát về nhân vật.
- ý nghĩa đối với người đọc

No comments:

Post a Comment