Câu hỏi ôn tập:
Nét đặc sắc trong hình ảnh người lính trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp vàchống Mỹ qua hai tác phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
=> Gợi ý:
I. Mở bài:
- Giới thiệu được hai tác giả, hai tác phẩm và vấn đề nghị luận ( hình ảnh người lính qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ).
* Mở bài 1:
Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc có một vị trí hết sức quan trọng. Đó không chỉ là hình tượng nghệ thuật tiêu biểu trong nhiều tác phẩm mà còn là biểu tượng đẹp nhất của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Phần lớn các tác giả đều có mặt ở những mũi nhọn của cuộc kháng chiến để kịp thời ghi lại một cách chân thực và sinh động hiện thực chiến đấu của chiến sĩ ta. Hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm chống Pháp và người chiến sĩ Giải phóng quân miền Nam thời đánh Mỹ đã được phản ánh khá rõ nét với những vẻ đẹp khác nhau. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua hai bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
* Mở bài 2
Có những tác phẩm đọc xong, gấp sách lại là ta quên ngay. Nhưng cũng có những cuốn sách như dòng sông chảy qua tâm hồn ta để lại những ấn tượng chạm khắc trong tâm khảm.”Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là hai tác phẩm như thế! Hình tượng anh bộ đội được ghi lại trong hai bài thơ đã lưu giữ trong văn chương Việt Nam hai gương mặt đẹp, đáng yêu của người lính trong hai thời kỳ lịch sử.
II. Thân bài:
Nội dung 1: Nét đặc sắc trong bút pháp thể hiện hình tượng người chiến sỹ qua hai bài thơ
Chính Hữu và Phạm Tiến Duật là hai nhà thơ chiến sỹ sống và chiến đấu ở hai cuộc chiến đấu chống Pháp và chống Mỹ thần thánh của dân tộc. Cùng thời với hai nhà thơ, đã có nhiều người viết về người chiến sỹ mang vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa, bi tráng.
- Chính Hữu và PTD cũng viết về người lính với những vẻ đẹp trong phẩm chất, nhưng bút pháp không xưa cũ, không bay bổng, hào nhoáng, không mỹ lệ mà bút pháp chủ yếu là bút pháp hiện thực về đời sống chiến tranh.
- Cả hai bài thơ đều được viết bằng thứ ngôn ngữ giản dị, chân thực, nhất là bài thơ về tiểu đội xe không kính của phạm Tiến Duật, những câu thơ như văn xuôi đã cho thấy không khí chiến trường ác liệt. Tuy nhiên ngôn ngữ ấy vẫn tạo được hình tượng cô đúc, vẫn dạt dào cảm xúc.
Nội dung 2: Nét đặc sắc của hình tượng người lính trong hai bài thơ: ( Điểm chung)
* Hình tượng người lính trong hai bài thơ mang vẻ đẹp chung của anh bộ đội cụ Hồ, Đó là:
- Họ đều từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu
+ Khi đất nước thanh bình, họ là nòng cốt xây dựng non sông phồn thịnh.
+ Khi đất nước có chiến tranh họ sẵn sàng hy sinh cả tài sản, tính mạng để đổi lấy nền độc lập cho dân tộc. Họ mang trong mình dòng máu lạc hồng.
- Ở người lính trong hai bài thơ đều thể hiện rõ tinh thần yêu nước bất khuất, kiên cường
- Ở họ có chung tinh thần lạc quan, tin yêu cuộc sống, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, sẵn sàng chiến đấu, xả thân vì lý tưởng: Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.
- Ở họ có chung tình đồng chí thắm thiết, sẻ chia vui buồn, sống chết có nhau.
=> Đây chính là những phẩm chất cao đẹp của người chiến sỹ cánh mạng trong thời đại Hồ chí minh, Các anh đã viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc, trở thành hình tượng trung tâm của thời đại, và trở thành đối tượng thẩm mỹ của thi ca. Tố Hữu đã ca ngợi:
“ Kính chào anh con người đẹp nhất
Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất ở trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỉ XX”
Nội dung 3: Tuy nhiên mỗi người một vẻ đẹp: Nét đặc sắc của hình tượng người lính trong mỗi bài thơ:
* Trong bài thơ “Đồng chí”:
- Lấy bút pháp hiện thực làm chủ đạo, CH đã xây dựng lên hình tượng người chiến sỹ trong buổi đầu chống thực dân Pháp với vẻ đẹp chân thực mộc mạc.
+ Họ là những người lính xuất thân từ nông dân, ở những miền quê nghèo khó “nước mặn đồng chua”,”đất cày lên sỏi đá”. Họ “chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung – chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ.
+ Họ đến với cuộc kháng chiến với tinh thần yêu nước thật giản dị: nghe theo tiếng gọi cứu nước mà tự nguyện lên đường. Phía sau họ là bao cảnh ngộ: xa nhà, xa quê hương, phó mặc nhà cửa, ruộng vườn cho vợ con để sống cuộc đời người lính. Chữ “mặc kệ” trong câu thơ “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay” đã lột tả được tinh thần “mến nghĩa” của những người nghĩa binh nông dân trong thơ Nguyễn Đình Chiểu, tinh thần “Ra đi không vương thê nhi” của các đấng trượng phu xưa và tinh thần “Quyết tự cho Tổ quốc quyết sinh” của những người tự vệ Thủ đô những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Nhưng khi đặt cạnh hình ảnh “gian nhà không” và chữ “gió lung lay” thì có gì đó cảm động quá. Người lính không hoàn toàn “mặc kệ” như khẩu khí đâu. Đó là đức hi sinh. Hi sinh cho quê hương đất nước. Một đức hi sinh giản dị làm cảm động lòng người.
- Trải qua những ngày gian lao kháng chiến đã ngời lên phẩm chất anh hùng ở những người nông dân mặc áo lính hiền hậu ấy.
+ Cái nhìn hiện thực đã giúp nhà thơ ghi lại được những nét chân thực về cuộc đời đi chiến đấu của người lính. Hình ảnh họ lam lũ với “áo rách vai”, “quần có vài mảnh vá”, với”chân không giày". Đói, rét, gian khổ khắc nghiệt đã khiến người lính phải chịu đựng những cơn sốt rét: “miệng cười buốt giá”,”sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Trong hoàn cảnh đầy thử thách đó, sống được đã là kì tích. Chính Hữu còn ghi được hình ảnh người lính can trường vượt lên vững vàng trên vị trí của mình: “Đêm nay rừng hoang sương muối/Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”.
- Họ có một đời sống tình cảm đẹp đẽ, sâu sắc:
+ Lòng yêu quê hương và gia đình thể hiện qua nỗi nhớ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”, niềm thương “gian nhà không”, qua ý thức về cảnh ngộ “quê hương anh nước mặn đồng chua” và “làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
+ Từ hiện thực cuộc sống gian lao thiếu thốn, họ vun đắp được tình đồng chí keo sơn, gắn bó. Không phải vô cớ Chính Hữu đặt tên bài thơ là “Đồng chí” và nhiều lần trong bài thơ hai tiếng ấy đã vang lên. Tình đồng chí, đồng đội như là sự hội tụ, tập trung tất cả những tình cảm, những phẩm chất của người lính: Lòng yêu thương giữa những con người cùng cảnh ngộ, tinh thần đồng cam cộng khổ, tinh thần kề vai sát cánh trong chiến đấu, sự gắn kết giữa những người cung chung lí tưởng, chung mục đích và ước mơ. Gian lao thử thách khiến tình đồng chí, đồng đội thêm keo sơn, sâu sắc. Ngược lại, tình đồng chí ấy lại giúp người lính có sức mạnh để vượt qua gian lao thử thách.
=> Hình ảnh người lính Cụ Hồ trong những ngày kháng chiến chống Pháp được Chính Hữu khắc họa trong tình đồng chí cao đẹp, tình cảm mới của thời đại cách mạng.
=> Họ được khắc họa và ngợi ca bằng cảm hứng hiện thực, bằng ngôn ngữ giản dị, bằng những chất thơ trong đời thường, được nâng lên thành những hình ảnh biểu tượng nên vừa chân thực, mộc mạc, vừa gợi cảm lung linh.
* Người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”:
- Nếu như những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp xuất thân từ những người nông dân nghèo khổ, quê hương họ là những nơi “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” thì những chiến sĩ lái xe Trường Sơn lại là những thanh niên có học vấn, có tri thức, đã được sống trong thời bình, được giác ngộ lí tưởng cách mạng cao cả, họ ra đi trong niềm vui phơi phới của sức trẻ hồn nhiên, yêu đời, yêu đất nước.
- Hình ảnh người lính lái xe – hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam những năm chống Mỹ phơi phới, dũng cảm, yêu thương được khắc họa qua hình ảnh những chiếc xe không kính và một giọng thơ ngang tàng, trẻ trung, gần gũi
- Những chiếc xe không có kính là hình ảnh để triển khai tứ thơ về tuổi trẻ thời chống Mỹ anh hùng. Đây là một thành công đặc sắc của Phạm Tiến Duật. Qua hình ảnh chiếc xe bị bom giặc tàn phá, nhà thơ làm hiện lên một hiện thực chiến trường ác liệt, dữ dội.
- Nhưng cũng “chính sự ác liệt ấy lại làm cái tứ, làm nền để nhà thơ ghi lại những khám phá của mình về những người lính, về tinh thần dũng cảm, hiên ngang, lòng yêu đời và sức mạnh tinh thần cao đẹp của lí tưởng sống chạy bỏng trong họ”.
Phân tích các dẫn chứng:
+ tư thế thật bình tĩnh, tự tin “Ung dung buồng lái ta ngồi”, rất hiên ngang, hào sảng “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
+ Một tâm hồn lãng mạn, bay bổng, trẻ trung: “Thấy sao trời và đột ngột cánh chim”.
+ Và độc đáo là tinh thần bất chấp khó khăn gian khổ, khiến cho lòng yêu đời được nhận ra và miêu tả thật độc đáo: các câu thơ “ừ thì có bụi”,”ừ thì ướt áo” và thái độ coi nhẹ thiếu thốn gian nguy “gió vào xoa mắt đắng”. Họ đã lấy cái bất biến của lòng dũng cảm, thái độ hiên ngang để thắng cái vạn biến của chiến trường gian khổ và ác liệt.
- Sâu sắc hơn, nhà thơ bằng ống kính điện ảnh ghi lại được tình đồng chí thắm thiết qua những khoảnh khắc “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi. Đó là khoảnh khắc người ta trao nhau và nhà thơ nhận ra sức mạnh của tình đồng đội, của sự sẻ chia giữa những con người cùng trong thử thách. Nó rất giống với ý của câu thơ “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” của Chính Hữu, nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn.
- Quyết tâm chiến đấu chiến thắng kẻ thù xâm lược của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ: Họ mang trong mình sức mạnh của tình yêu với miền Nam, với lí tưởng độc lập tự do và thống nhất đất nước.
=> Nét đẹp của người chiến sỹ lái được nhà thơ Phạm Tiến Duật vẽ nên từ chính đời sống hiện thực, vô cùng nghiệt ngã của chiến tranh ….
c. Kết luận: Khẳng định, nâng cao:
- Lịch sử chiến tranh đã lùi xa nhưng hình tượng người lính trong hai cuộc kháng chiến đã tạc vào thế kỉ trở thành dáng đứng kiên cường bất khuất Việt nam, hình tượng ấy bất tử trong lòng người dân việt.
- Là thế hệ được thừa hưởng cuộc sống yên bình và hạnh phúc ta không bao giờ được quên quá khứ hào hùng và bi tráng của cha ông.
- Thế hệ hôm nay cần tiếp bước cha ông để xây dựng bảo về thành quả ấy đưa đất nước ngày càng phát triển.
Chúc các bạn ôn thi đạt hiệu quả.
Các bạn có thể cm bên dưới cho mình để tải nhiều tài liệu hữu ích phục vụ công tác bồi dưỡng học sinh giỏi văn 9 nữa nhé
rất chi tiết
ReplyDeletecảm ơn bạn
cám ơn bạn!
ReplyDelete